Truyền thống 70 năm xây dựng, chiến
đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2014).
Dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời và cùng
toàn dân tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công:
Trong Chính
cương vắn tắt, Luận cương Chính trị tháng 10/1930, Đảng ta đã khẳng định con đường
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, phải tổ chức ra quân đội công nông để
giành chính quyền và giữ chính quyền. Vì vậy, ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời, các tổ chức vũ trang lần lượt được hình thành là Đội tự vệ đỏ trong
cao trào Xô viết - Nghệ Tĩnh và cao trào cách mạng (1930 - 1931).
Cuối tháng
10/1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc trở về Hà Quảng, Cao Bằng. Căn cứ
chỉ dẫn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng với đồng chí
Lê Quảng Ba họp bàn thống nhất tổ chức 1 trung đội, lực lượng chủ yếu lấy từ
các đội vũ trang châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Ngân Sơn... và một số đồng
chí đã từng học quân sự ở nước ngoài về.
Chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại một
khu rừng giữa 2 tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh
Cao Bằng. Đội gồm 34 chiến sĩ, trang bị 34 khẩu súng, chia thành 03 tiểu đội,
có chi bộ Đảng lãnh đạo, do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng, đồng chí Xích Thắng
làm chính trị viên.
(Lễ thành lập Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân)
Ngày
25/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân tiến công đồn Phay Khắt.
Ngày 26/12/1944 tiến công đồn Nà Ngần. Tháng 3/1945, Thường vụ Trung ương họp
và ra chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Tháng
4/1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định
thống nhất lực lượng vũ trang cả nước (Việt Nam Tuyên truyên giải phóng quân, Cứu
quốc quân…) Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước. Ngày 15/5/1945, sau
buổi lễ thống nhất tại Định Biên Thượng, Định Hóa Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp
trở thành Tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất, mang tên Việt Nam giải
phóng quân.
Trên cơ sở
đánh giá thời cơ và tình hình cách mạng trong nước, Đảng ta đã lãnh đạo các tầng
lớp nhân dân đồng loạt đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ
trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã
giành thắng lợi hoàn toàn.
Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ
Quốc dân. Năm 1946, Vệ Quốc dân đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm
1950, đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam.
(Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập)
Ngày
22/12/1944, ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyên giải phóng quân được lấy
làm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
Quân
đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954)
Cách mạng
Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng trước một tình thế rất
phức tạp và chồng chất khó khăn. Cùng một lúc, chúng ta phải đối phó với cả “giặc
đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”, ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng vào giải giáp vũ khí của
phát xít Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Ở miền Nam, thực dân Pháp được quân Anh
giúp sức đã trắng trợn gây hấn ở Nam Bộ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng
vũ trang và nhân dân ta nhất tề đứng dậy hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn quốc kháng
chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày
19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Ngày
07/10/1947, Pháp huy động hơn 2 ngàn quân có máy bay, tàu chiến hỗ trợ mở cuộc
tiến công lớn lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến và bộ đội
chủ lực của ta Quân ta đã liên tiếp phản công tiêu diệt địch, làm nên thắng lợi
của Chiến dịch Việt Bắc. Đây là thắng lợi quy mô lớn đầu tiên của quân và dân
ta, làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp.
Tháng 6/1950
ta mở Chiến dịch Biên Giới. Năm 1949 - 1952 Quân đội ta đã thành lập được nhiều
đại đoàn chủ lực như: Đại đoàn 304, 308, 316, 325 và Đại đoàn công pháo 351.
Tháng 9/1953, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân
1953 - 1954. Kế hoạch của Nava bắt đầu bị phá sản.
Ngày 06/12/1953, Bộ
Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 55 ngày đêm chiến đấu Ngày
07/5/1954, bộ đội ta tổng công kích tiêu diệt toàn bộ cứ điểm Điện Biên Phủ. Kế hoạch Nava thất bại. Hội nghị Giơnevơ về
Đông Dương thắng lợi, buộc pháp phải công nhận độc lập dân tộc, chủ quyền thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Quân
đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1945 - 1975):
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu
tranh chính trị ở miền Nam, “Đồng Khởi" làm thất bại một hình thức thống
trị điển hình bằng chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ (1954 - I960)
Sau năm 1954,
miền Bắc từng bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, là chỗ dựa và hậu
phương lớn của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
Ở miên Nam, Mỹ
ra sức xây dựng ngụy quân, chỉ huy chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp đẫm máu những
người yêu nước, hô hào “Bắc tiến”, “lấp sông Bến Hải”; mở các chiến dịch lớn
đánh vào nhân dân, trả thù những người kháng chiến, thẳng tay thi hành cái gọi
là “Quốc sách tố cộng, diệt cộng", “Luật 10-59”, theo luật 10-59, tội xử
chỉ có hai mức: tử hình và khổ sai chung thân.
Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 15 (tháng 1/1959), xác định con đường, mục tiêu, phương pháp
cách mạng ở miền Nam, mối quan hệ giữa hai chiến tuyến cách mạng ở hai miền Nam
- Bắc; giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Từ phong trào
“Đồng khởi”, lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp của ta từng
bước hình thành. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
được thành lập.
Miền Bắc mở đường
bộ 559. đường biển 759 chi viện cho chiến trường miền Nam. Cuối năm 1960, hình
thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm bị thất
bại, đế quốc Mỹ vội vàng thay đổi, chuyển sang dùng chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt".
Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
của đế quốc Mỹ ở miền Nam, tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ CNXH ở miền Bắc
(1961 đến giữa 1965):
Đế quốc Mỹ đã
thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt". Chúng đưa tiền của, vũ khí và
cố vấn vào miền Nam, chỉ huy quân đội ngụy, tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn
dân, theo chiến thuật “tát nước bắt cá”.
Quân và dân miền
Nam đã sáng tạo ra hình thức tiến công “hai chân (quân sự, chính trị), ba mũi
(quân sự, chính trị, binh vận), ba vùng (rừng núi, đồng bằng, thành thị)",
tiến hành thắng lợi một số chiến dịch quy mô nhỏ và vừa (Bình Giã, Ba Gia, Đồng
Xoài), đẩy ngụy quyền Sài Gòn rơi vào tình trạng khủng hoảng triền miên.
"Quân lực Việt Nam cộng hòa đã không
còn đủ sức chiến đấu, chế độ Sài Gòn đã thất bại". Trước những thất
bại liên tiếp, Mỹ dựng nên sự kiện “Vịnh Băc Bộ”. Ngày 05/8/l964 Mỹ mở cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, đánh ồ ạt ở các khu căn cứ
sông Gianh (Quảng Bình), Cửa Hội (thành phố Vinh). Lạch Trường (Thanh Hóa), Bãi
Cháy (Quảng Ninh). Ngày 05/8 trở thành
ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam.
Cả nước có chiến tranh, đánh bại chiến lược
“Chiến tranh cục bộ" và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế
quốc Mỹ, mở ra giai đoạn “vừa đánh vừa đàm ” (giữa 1965 đến 1968):
Chiến lược
"Chiến tranh đặc biệt" bị phá sản, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện
chiến lược “Chiến tranh cục bộ”; sử dụng quân Mỹ làm lực lượng cơ động chủ yếu
để tiêu diệt bộ đội chủ lực ta. Từ giữa năm 1965 đến 1967, chúng đưa vào miền
Nam hơn nửa triệu quân Mỹ và quân đội một số nước chư hầu, đồng thời sử dụng
không quân và hải quân mở chiến dịch "Sấm rền”, đánh phá ác liệt nhằm
"đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá", ngăn chặn chi viện từ miền Bắc
và quốc tế vào miền Nam.
Trong 4 năm
(1964 - 1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay các loại, bắt sống
nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn cháy 143 tàu chiến.
Hội nghị lần
thứ 11 (3/1965), lần thứ 12 (12/1965), Trung ương Đảng hạ quyết tâm động viên lực
lượng cả nước kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền
Nam thống nhất Tổ quốc.
Ngày
17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử: "Chiến tranh có thể
kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng, và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!
Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại
đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.”
Với khẩu hiệu
"Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", miền
Bắc đã phát động nhiều phong trào thi đua ái quốc, "Thanh niên ba sẵn
sàng". "Phụ nữ ba đam đang", "Tay búa, tay súng" của
công nhân, "Ba quyết tâm " của trí thức tạo nên ý chí mới, sức mạnh mới
cổ vũ toàn dân đánh giặc.
Trên chiến trường
miền Nam, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, lực lượng vũ trang quân giải phóng đã tổ
chức các đợt tiến công, bẻ gẫy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - Ngụy. Mở
đầu là chiến thắng Núi Thành, Quảng Nam (26/5/1965), tiếp đó là chiến công vang
dội đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 - 1966, 1966 - 1967)
làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục hộ" của Mỹ.
Thắng lợi của cuộc tiến công và nổi dậy Mậu
Thân năm 1968 làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ngồi
vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của
dân tộc ta đã có điều kiện mở ra mặt trận tiến công mới về ngoại giao “vừa
đánh, vừa đàm”.
Đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh" và cuộc tập kích bằng không quân, hải quân lần thứ hai của đế quốc
Mỹ vào miền Bắc (từ năm 1969 đến cuối 1973):
Thất bại trên
chiến trường miền Nam, đế quốc đã thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến
tranh", dùng người Việt đánh người Việt, mở rộng chiến tranh ra toàn Đông
Dương.
Đầu năm 1972,
quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, làm thay đổi so
sánh lực lượng và thay đổi cục diện chiến tranh, dồn Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn
vào thế yếu trầm trọng hơn. Thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên cả hai miền
Nam - Bắc, buộc Mỹ phải ký “Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh và lập lại
hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973).
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm
1975, đỉnh cao chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất Tổ quốc (cuối năm 1973 đến 30/4/1975):
Hiệp định Pari
được ký kết, nhưng với bản chất ngoan cố, đế quốc Mỹ không chịu từ bỏ âm mưu
duy trì chế độ thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. chúng tăng cường viện
trợ quân sự, điều khiển chính quyền cua Nguyễn Văn Thiệu, ra sức củng cố ngụy
quân, ngụy quyền, mở các cuộc hành quân “tràn ngập lành thổ lấn chiếm vùng giải
phóng.
Hội nghị Bộ
Chính trị tháng 10/1974 và đầu năm 1975, Đảng ta đã đánh giá so sánh lực lượng
và đề ra quyết tâm giải phóng miền Nam. Xây dựng các đơn vị chủ lực như các
Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232.
Với thế lực mới,
quân và dân ta đã chủ động tiến công giải phóng Phước Long (06/1/1975).
Ngày 04/3/1975
mở chiến dịch Tây Nguyên.
Ngày 14/4/1975
Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo
"Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng".
Ngày
29/4/1975, quân và dân ta tiến hành tổng tiến công trên toàn mặt trận.
Vào lúc 11 giờ
30 phút ngày 30/4/1975, cờ giai phóng đã tung bay trên nóc tòa nhà chính “Dinh
Độc Lập”. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng.
(Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng)
Quân
đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa (1975 - 2014):
Khắc phục hậu quả chiến tranh, ôn định đời sống
nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên trong giai đoạn mới:
Nhiệm vụ của
Quân đội được Trung ương Đảng nêu rõ: "Ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng
và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta...bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thỏ. vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống
nhất ", Đông thời "Tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của CNXH”.
Cùng toàn dân đánh thắng cuộc chiến tranh
xâm lược biên giới và làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia:
Tháng 4/1977,
tập đoàn Pôn Pôt - Iêngxari đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược biên giới
Tây Nam nước ta. Với sự giúp đỡ to lớn của Ọuân tình nguyện Việt Nam, ngày 07/01/1979,
các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đã đánh đổ chế độ diệt
chủng Pôn Pốt - Iêngxari, hồi sinh, tái thiết lập đất nước.
Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa:
Thực hiện công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Chủ động và
kiên quyết thực hiện tốt nhiệm vụ cấp bách hàng đầu là phòng chống chiến lược
“diễn biến hòa hình, bạo loạn lật đổ”.
Tham gia phòng
chống thiên tai, bão lụt, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.
Giữ vững vai
trò là lực lượng nòng cốt, tích cực tham gia củng cố, xây dựng cơ sở chính trị
địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và các địa bàn chiến
lược trọng yếu.
Trong công tác
xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Xây dựng kinh tế, Ọuân đội ta đã đạt được những thành tự trên tất cả các lĩnh vực:
nghiên cứu khoa học, chế tạo, sản xuât, sửa chữa, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật
và lĩnh vực quốc phòng. Các ngành công nghiệp quốc phòng, hậu cần, kỹ thuật, viễn
thông, dịch vụ.
Hiểu về bản chất truyền thống
cách mạng vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam như sau:
Một là: Trung thành vô hạn với Tô quốc
Việt Nam xà hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Hai là: Quyết chiến, quyết thẳng, biết
đánh và biết thẳng.
Ba là: Gắn bó máu thịt với nhân dân,
quân với dân một ý chí.
Bốn là: Đoàn kết nội bộ, cán bộ, chiên
sĩ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu giúp đỡ nhau, trên dưới đồng
lòng, thống nhất ý chí và hành động.
Nàm là: Kỷ luật tự giác nghiêm minh.
Sáu là: Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường,
cần kiệm xây dựng quân đội, xây dựng đất nước, tôn trọng và bảo vệ của công.
Bẩy là: Lối sống trong sạch, lành mạnh,
có văn hóa, trung thực, khiêm tốn, giản
dị, lạc quan.
Tám là: Luôn luôn nêu cao tinh thần ham
học, cầu tiên bộ.
Chín là: Đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy
chung, chí nghĩa, chí tình.
Kỷ niệm sâu sắc của bản thân về hình ảnh “Bồ đội Cụ Hồ”, và trách nhiệm
của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Viêt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Các anh luôn nở
nụ cười trước mọi khó khăn, gian khó, dũng cảm, phi thường sát cánh bên nhân
dân, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, không những vì sự nghiệp bảo vệ quê
hương, đất nước mà các anh cũng luôn chăm lo đến đời sống nhân dân, giúp dân
trong lao động sản xuất. Đoàn kết, và xây dựng mối liên kết quân với dân một
lòng, thân thiện, chân tình, gần gũi “Đi dân nhớ, ở dân thương”, không ngại ngần
gian khó, đi bất cứ đâu, biên giới xa xôi cho tới biển đảo, trong vùng trời Việt
Nam, nơi đâu có người dân của mình.
Các anh luôn
mang trong mình tinh thần yêu nước, thương dân,
kiên cường, bất khuất, dũng cảm trước quân xâm lược, trung thành với Đảng,
một lòng, một dạ với nhân dân. Giữ chắc tay súng gìn giữ vùng trời Việt Nam,
cho các em thơ ngon giấc, vui bước tới trường, đôi lứa hẹn hò hạnh phúc, cho
các cụ già vui vầy bên con cháu, cho mọi người yên tâm hăng say lao động sản xuất,
lo cho gia đình, cho thôn xóm, cho đất nước bình yên. Các anh luôn giữ chắc tay
súng nơi biên giới xa xôi với tổng chiều dài 4.639 km trên bộ và với 3.444 km bờ biển. Hình tượng các anh luôn
toát lên trí khí kiên cường, hiên ngang, bất khuất mà tôi luôn nể phục, tiếp bước
các anh, những người chiến sỹ.
Trong cuộc sống
thường ngày hình ảnh các anh luôn hiên ngang, bất khuất và đẹp đẽ, hình ảnh các
anh thật luôn lung linh và sáng chói qua từng lời thơ, câu hát. Khiến mọi trái
tim cồn cào xao động mỗi khi nghe những bài hát về anh:
“Một ba lô,
cây súng trên vai,
Người chiến sĩ quen với gian lao,
Ngày dài đêm
thâu vẫn có những người lính trẻ,
Nặng tình quê
hương canh giữ miền đất mẹ…”
Ngược dòng lịch
sử, từ cây đa Tân Trào, với lực lượng 34 chiến sĩ, trải qua muôn vàn gian khó,
hi sinh , được Bác Hồ kính yêu dìu dắt , đưa đường, chỉ lối, quân đội ta đã lớn
mạnh như vũ bão.Từ hình ảnh anh vệ quốc
đoàn năm xưa đến hình ảnh anh giải phóng quân-anh bộ đội Cụ Hồ đều soi bóng, với những vẻ đẹp kì diệu biết bao nhiêu .Tổ quốc
ca ngợi anh, nhân dân ca ngợi anh bằng những những vần thơ đẹp nhất, trân trọng
nhất :
“ Rất đẹp hình
anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo “
Bình dị là thế,
hiền lành là thế nhưng rất phi thường, dũng cảm, chính các anh đã góp phần quan
trọng làm nên trang sử vàng của dân tộc. Anh bộ đội Cụ Hồ- hình ảnh của những con
người đẹp nhất, mang trong mình những phẩm chất cao đẹp nhất, phát huy cao độ
chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, làm rạng rỡ non sông đất nước ta.
“Anh đi bộ đội
sao trên mũ
Mãi mãi là sao
sáng dẫn đường” (Núi đôi - nhà thơ Vũ Cao)
Có lẽ để gọi
là kỉ niệm sâu sắc cụ thể thì thật là khó, xong kể từ khi bi bô biết hát có lẽ
hình ảnh chú bộ đội đã rất gần gũi và in dấu trong lòng trẻ thơ. Vì vậy, khi
nói hay kể những câu truyện về hình ảnh cao quý đó sẽ biết bao tình cảm và kỉ
niệm sâu sắc về hình ảnh “Bộ đội cụ Hồ” được dựng lên với những kỉ niệm sâu sắc
qua cuộc sống thường ngày, qua câu thơ, tiếng hát, sáng ánh hào quang khí thế, hùng
dũng, hiên ngang mà giản dị và trân thành nhất.
Đó là tình
yêu, là tấm lòng người con đất Việt. Làm sao không yêu, trái tim không lay động
trước một hình tượng mang cả thế giới tâm hồn dân tộc, là sức mạnh để đất nước
trường tồn và phồn vinh. Trái tim tuổi trẻ hôm nay và mai sau sục sôi, nhiệt
huyết noi gương, và tiếp bước. Mãi “Hát về anh”
người chiến sỹ biên cương. “Ðã có những hy sinh khó nói hết bằng lời,
Nên đọng lại trong tôi những nghĩ suy”…